Mục lục:
- Không phải mọi sự tăng giá đều được coi là lạm phát. Giá cả có thể tăng do người tiêu dùng yêu cầu nhiều hàng hoá hơn hoặc vì nguồn tài nguyên trở nên khan hiếm. Thật vậy, giá cả thường xuyên tăng và giảm đối với hàng hoá cá nhân. Khi giá tăng lên do dư thừa cổ phiếu, nó được gọi là lạm phát.
- Theo Edmund Phelps và Milton Friedman, Keynesians đã sai lầm khi cho rằng có một sự cân bằng giữa lạm phát và thất nghiệp. Họ cho rằng các chính sách ngân hàng trung ương lỏng lẻo cuối cùng sẽ dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế thực tế thấp hơn và tỷ lệ lạm phát dài hạn cao hơn.
Stagflation được coi là kinh nghiệm đồng thời của ba hiện tượng kinh tế tiêu cực khác nhau: lạm phát gia tăng, thất nghiệp gia tăng và nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ giảm. Mặc dù đã có nhiều ví dụ về nền kinh tế phương Tây trì trệ trong suốt thế kỷ 19 và 20, nhiều nhà kinh tế vẫn không tin tưởng rằng sự đình đốn có thể tồn tại do đường cong Phillips, vốn coi lạm phát và suy thoái là những lực lượng đối nghịch nhau.
Từ "stagflation" được phổ biến vào năm 1965 bởi một thành viên của Quốc hội Anh, Iain Macleod, người đã nói với Hạ viện rằng nền kinh tế Anh đã "xấu nhất của cả hai thế giới," ý nghĩa trì trệ và lạm phát. Ông đã đề cập đến nó như là một "tình trạng" đình hoãn ". Tuy nhiên, sự đình hoãn sẽ không được nổi tiếng trên toàn thế giới cho đến giữa những năm 1970, khi hơn một nửa nền kinh tế lớn trải qua giai đoạn tăng giá và thất nghiệp.Lạm phát, sự thất nghiệp và suy thoái
Lạm phát là sự gia tăng cung tiền (chứng khoán tiền tệ) gây ra mức giá chung trong nền kinh tế tăng lên. Khi nhiều đơn vị tiền tệ có sẵn để đuổi theo số lượng hàng hoá như nhau, luật cung và cầu yêu cầu mỗi đơn vị tiền tệ trở nên ít có giá trị hơn.Không phải mọi sự tăng giá đều được coi là lạm phát. Giá cả có thể tăng do người tiêu dùng yêu cầu nhiều hàng hoá hơn hoặc vì nguồn tài nguyên trở nên khan hiếm. Thật vậy, giá cả thường xuyên tăng và giảm đối với hàng hoá cá nhân. Khi giá tăng lên do dư thừa cổ phiếu, nó được gọi là lạm phát.
Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ lao động muốn tìm việc nhưng không thể làm được. Các nhà kinh tế thường phân biệt giữa thất nghiệp theo mùa hay ma sát, đó là một phần của quá trình thị trường, và thất nghiệp cơ cấu (đôi khi được gọi là thất nghiệp về thể chế). Thất nghiệp cấu trúc càng gây nhiều tranh cãi; một số người tin rằng các chính phủ phải can thiệp để giải quyết tình trạng thất nghiệp cơ cấu, trong khi một số khác cho rằng sự can thiệp của chính phủ là nguyên nhân gốc rễ của nó.
Sự suy thoái thường được định nghĩa là hai phần liên tiếp của sự tăng trưởng kinh tế âm tính được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nó còn được gọi là sự co lại về kinh tế. Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) cho rằng suy thoái kinh tế là "một giai đoạn giảm hoạt động hơn là giảm hoạt động". Thông thường, suy thoái được thể hiện bằng việc giảm nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ hiện có, giảm lương thực, gia tăng thất nghiệp tạm thời và tăng tiết kiệm.Giải thích về sự đình đốn
Chính sách tiền tệ hoặc tài chính đương đại hiện nay không được trang bị để xử lý thời kỳ đình công.Các công cụ chính sách quy định bởi kinh tế vĩ mô để chống lại lạm phát gia tăng bao gồm giảm chi tiêu của chính phủ, tăng thuế, tăng lãi suất và tăng yêu cầu dự trữ ngân hàng. Giải pháp cho thất nghiệp gia tăng là hoàn toàn ngược lại: chi tiêu nhiều hơn, giảm thuế, hạ lãi suất và khuyến khích các ngân hàng cho vay.
Theo Edmund Phelps và Milton Friedman, Keynesians đã sai lầm khi cho rằng có một sự cân bằng giữa lạm phát và thất nghiệp. Họ cho rằng các chính sách ngân hàng trung ương lỏng lẻo cuối cùng sẽ dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế thực tế thấp hơn và tỷ lệ lạm phát dài hạn cao hơn.
Các nhà kinh tế học khác cho rằng nhu cầu bị giới hạn bởi sản xuất, là phương tiện để đảm bảo hàng hoá và dịch vụ. Do đó, bất kỳ biện pháp kích thích tiền tệ nào làm loãng sự giàu có thực sự tạo ra bởi các nhà sản xuất giàu có - các doanh nghiệp và doanh nghiệp - và làm suy yếu khả năng của họ để phát triển nền kinh tế thông qua tăng năng suất. Kết quả là một cuộc suy thoái lộn xộn với sản lượng giảm và giá cả tăng cao.
Sự khác biệt chính giữa tình trạng trì trệ và siêu lạm phát là gì?
Tìm hiểu sự khác biệt giữa lạm phát đình trệ và tăng lạm phát và các loại chính sách tiền tệ được sử dụng để thực hiện hành động khắc phục chống lại họ.
Những hành động hoặc chính sách nào mà cơ quan chính phủ có thể thực hiện để chống lại và chấm dứt tình trạng đình đốn trong nền kinh tế?
Tìm hiểu tại sao sự đình đốn không thể được điều chỉnh thông qua chính sách tài khóa hoặc tiền tệ truyền thống và tại sao nó lại từng được cho là không thể.
Những chỉ số kinh tế chính nào của U. S. làm cho các nhà kinh tế theo dõi để xác định xem các điều kiện cần thiết cho tình trạng trì trệ có xảy ra?
Phát hiện các chỉ số kinh tế hàng đầu của U. được sử dụng bởi các nhà phân tích kinh tế để xác định khi nào có các điều kiện cho tình trạng trì trệ.