Các nhà hoạch định chính sách thường phải đối mặt với những vấn đề kinh tế vĩ mô nào?

Bùng nổ phản đối Luật Đặc khu, chính phủ hứa ‘lắng nghe’ (VOA) (Tháng Giêng 2025)

Bùng nổ phản đối Luật Đặc khu, chính phủ hứa ‘lắng nghe’ (VOA) (Tháng Giêng 2025)
AD:
Các nhà hoạch định chính sách thường phải đối mặt với những vấn đề kinh tế vĩ mô nào?
Anonim
a:

Kinh tế học vĩ mô giải quyết các yếu tố kinh tế quy mô lớn ảnh hưởng đến toàn bộ dân số. Các nhà hoạch định chính sách phải đưa ra quyết định kinh tế vĩ mô như ấn định lãi suất và cân bằng lạm phát của cả nước với cả tỷ giá hối đoái và tỷ giá hối đoái. Việc thiết lập các điều kiện tài chính tạo điều kiện tăng đầu tư của khu vực tư nhân cũng giúp các nhà hoạch định chính sách tăng trưởng kinh tế trong khi giảm nghèo. Các nhà hoạch định chính sách phải tính đến nhiều yếu tố khi giải quyết các vấn đề rộng lớn như thất nghiệp, lạm phát và GDP của một quốc gia hiện nay.

AD:

Các triết lý về cách đạt được tăng trưởng và nền kinh tế lành mạnh khác nhau. Các chính sách kinh tế Keynes đề xuất rằng chính phủ sẽ điều hành thặng dư ngân sách trong thời kỳ thịnh vượng tài chính và thâm hụt trong thời kỳ suy thoái. Các chính sách kinh tế cổ điển có cách tiếp cận rập khuôn hơn trong thời kỳ suy thoái, tin rằng các thị trường sẽ tự điều chỉnh khi không bị cản trở và chính phủ mượn hoặc can thiệp quá nhiều của chính phủ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng hồi phục của thị trường. Các nhà hoạch định chính sách phải đạt được một số thoả thuận hoặc giải quyết với nhau về cách tiếp cận để thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào.

Việc sử dụng thuế là một công cụ kinh tế vĩ mô là một chủ đề tranh cãi gay gắt giữa các nhà hoạch định chính sách vì thuế suất có ảnh hưởng lớn đến điều kiện tài chính nói chung và khả năng cân bằng ngân sách của chính phủ. Các lý thuyết kinh tế về phía cung, đối nghịch với lý thuyết Keynes, lập luận rằng thuế cao hơn tạo ra rào cản đối với đầu tư tư nhân, và do đó cản trở sự tăng trưởng cần thiết cho nền kinh tế lành mạnh. Tuy nhiên, thuế thấp hơn có nghĩa là chính phủ có ít tiền hơn để chi tiêu, có khả năng làm tăng thâm hụt do chính phủ vay nhiều hơn.

AD:

Điều này đã được nhìn thấy trong những năm 1980 khi Ronald Reagan cắt giảm thuế và gia tăng chi tiêu quân sự như một phương tiện kích thích nền kinh tế. Kết quả là, chính phủ buộc phải chi tiêu một khoản thâm hụt để bù đắp chi tiêu tăng với doanh thu ít hơn.

Các nhà hoạch định chính sách luôn muốn tránh trầm cảm, xảy ra khi đã có một cuộc suy thoái nghiêm trọng trong hơn hai năm. Trầm cảm thường làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, tăng nghèo đói, giảm tín dụng, GDP giảm và sự biến động kinh tế tổng thể. Giảm niềm tin của nhà đầu tư làm cho việc trở lại nền kinh tế ngày càng trở nên khó khăn để phục hồi tăng trưởng. Thay đổi chính sách thường là cần thiết trong trường hợp này để ổn định nền kinh tế và đảo ngược ảnh hưởng của cuộc suy thoái kéo dài.

Một ví dụ nổi tiếng là Cuộc Đại suy thoái năm 1929 tại Hoa Kỳ.Do sự sụp đổ của thị trường chứng khoán và hậu quả, Franklin D. Roosevelt và các nhà hoạch định chính sách khác đã thành lập Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) và Ủy ban Chứng khoán (SEC) để bảo vệ tiền gửi ngân hàng và điều hành việc kinh doanh chứng khoán. Chi tiêu của chính phủ cũng gia tăng khi Chiến tranh thế giới II bắt đầu, và những điều kiện thay đổi này đã giúp đảo ngược nền kinh tế trầm cảm trong những năm trước.

Các nhà hoạch định chính sách có một công việc khó khăn khi nói đến kinh tế vĩ mô. Các yếu tố kinh tế có mối quan hệ tương quan với nhau theo nhiều cách để thay đổi một yếu tố có thể có những hậu quả không mong muốn đối với nhiều người khác. Các nhà hoạch định chính sách phải duy trì một hành động cân bằng khá tinh tế trong khi cố gắng hướng tới sự phát triển kinh tế theo những cách không làm tăng sự biến động kinh tế tổng thể.