Làm thế nào để xác định cổ phiếu không có cân nhắc

Tránh phá sản, Công ty nên VAY bao nhiêu là vừa đủ? Xác định cấu trúc vốn tối ưu cho TĐ Hoà Phát (Tháng Mười 2024)

Tránh phá sản, Công ty nên VAY bao nhiêu là vừa đủ? Xác định cấu trúc vốn tối ưu cho TĐ Hoà Phát (Tháng Mười 2024)
Làm thế nào để xác định cổ phiếu không có cân nhắc

Mục lục:

Anonim

Các nhà đầu tư muốn tối đa hoá lợi nhuận của họ cố gắng xác định các cổ phiếu bị định giá sai, tạo ra cơ hội lâu dài cho các công ty có vốn đầu tư thấp và cơ hội ngắn hạn cho các cổ phiếu đã được định giá quá cao. Không phải mọi người đều tin rằng một cổ phiếu có thể được mispriced, đặc biệt là những người ủng hộ giả thuyết thị trường hiệu quả. Lý thuyết thị trường hiệu quả giả định rằng giá thị trường phản ánh tất cả các thông tin có sẵn về cổ phiếu và thông tin này là thống nhất. Các nhà quan sát cũng cho rằng bong bóng tài sản được định hướng bởi thay đổi nhanh chóng thông tin và kỳ vọng hơn là hành vi đầu cơ không hợp lý hoặc quá đầu cơ.

Nhiều nhà đầu tư tin rằng thị trường chủ yếu là hiệu quả và một số cổ phiếu bị định giá sai ở những thời điểm khác nhau. Trong một số trường hợp, toàn bộ thị trường có thể được đẩy ra ngoài lý do trong một chu kỳ tăng hoặc giảm, thách thức các nhà đầu tư nhận ra đỉnh điểm và đáy trong chu kỳ kinh tế. Thông tin về một công ty có thể bị thị trường bỏ qua. Các cổ phiếu vốn nhỏ thường có xu hướng không thông tin bất thường vì có ít nhà đầu tư, các nhà phân tích và các nguồn thông tin truyền thông theo những câu chuyện này. Trong các trường hợp khác, những người tham gia thị trường có thể tính toán sai số tin tức và tạm thời bóp méo giá của cổ phiếu.

Những cơ hội này có thể được xác định thông qua một số phương pháp luận rộng. Định giá tương đối và định giá nội tại cả hai đều tập trung vào dữ liệu tài chính và nguyên tắc cơ bản của công ty. Định giá tương đối sử dụng một số chỉ số so sánh cho phép các nhà đầu tư đánh giá cổ phiếu liên quan đến các cổ phiếu khác. Các phương pháp định giá nội tại cho phép các nhà đầu tư tính giá trị của một cơ sở kinh doanh tiềm ẩn độc lập với các công ty khác và giá cả thị trường. Phân tích kỹ thuật cho phép các nhà đầu tư xác định được các cổ phiếu đã được định giá sai bằng cách giúp họ xác định được các biến động giá trong tương lai do hành vi của người tham gia thị trường.

Định giá tương đối

Các nhà phân tích tài chính sử dụng một số chỉ số được sử dụng để liên kết dữ liệu tài chính theo giá. Tỷ lệ giá-thu nhập (P / E ratio) đo lường giá của một cổ phiếu liên quan đến thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) của một công ty, và thường là tỷ lệ định giá phổ biến nhất bởi vì thu nhập là cần thiết để xác định thực tế giá trị kinh doanh cơ bản cung cấp cho thu nhập. Tỷ số P / E thường sử dụng các ước tính thu nhập tạm tính trong tính toán của nó do các khoản thu nhập trước đây về mặt lý thuyết đã được thể hiện trong bảng cân đối kế toán. Tỷ lệ giá-sổ sách (P / B) được sử dụng để cho biết giá trị của một công ty được tạo ra theo giá trị sổ sách của nó. P / B rất quan trọng trong việc phân tích các công ty tài chính, và nó cũng hữu ích để xác định mức độ đầu cơ có trong định giá cổ phiếu. Giá trị doanh nghiệp (EV) đối với thu nhập trước lãi, thuế, khấu hao và khấu trừ (EBITDA) là một chỉ số định giá phổ biến khác được sử dụng để so sánh các công ty có cấu trúc vốn khác nhau hoặc yêu cầu chi tiêu vốn.Tỷ số EV / EBITDA có thể giúp đánh giá các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành khác nhau.

Phân tích lợi nhuận thường được sử dụng để thể hiện lợi nhuận của các nhà đầu tư theo tỷ lệ phần trăm của giá trả cho một cổ phiếu, cho phép nhà đầu tư khái niệm giá như một khoản chi tiền mặt có tiềm năng cho lợi nhuận. Cổ tức, thu nhập và dòng tiền tự do là các loại phổ biến của lợi tức đầu tư và có thể được chia cho giá cổ phiếu để tính năng suất.

Tỷ lệ và sản lượng không đủ để xác định sai chính xác của mình. Những con số này được áp dụng cho việc định giá tương đối, có nghĩa là các nhà đầu tư phải so sánh các số liệu khác nhau giữa các nhóm ứng cử viên đầu tư. Các loại hình công ty khác nhau được đánh giá theo những cách khác nhau, vì vậy điều quan trọng là các nhà đầu tư sử dụng so sánh âm thanh. Ví dụ, các công ty tăng trưởng thường có tỷ số P / E cao hơn các công ty đã trưởng thành. Các công ty trưởng thành có triển vọng trung hạn hơn và thường có nhiều cơ cấu vốn nặng nề hơn. Tỷ lệ P / B bình quân cũng khác nhau đáng kể giữa các ngành. Mặc dù việc định giá tương đối có thể giúp xác định những cổ phiếu nào hấp dẫn hơn so với các công ty cùng ngành nhưng phân tích này nên giới hạn trong các công ty có thể so sánh.

Giá trị nội tại

Một số nhà đầu tư cho rằng lý thuyết của Benjamin Graham và David Dodd của trường kinh doanh Columbia là những người cho rằng cổ phiếu có giá trị nội tại độc lập với giá thị trường. Theo trường phái tư tưởng này, giá trị thật sự của cổ phiếu được xác định bởi dữ liệu tài chính cơ bản và thường dựa vào sự đầu cơ tối thiểu hoặc không về hiệu suất trong tương lai. Về lâu dài, các nhà đầu tư giá trị mong đợi giá thị trường có xu hướng có giá trị nội tại, mặc dù lực lượng thị trường có thể đẩy giá tạm thời ở trên hoặc dưới mức này. Warren Buffet có lẽ là nhà đầu tư giá trị đương đại nổi tiếng nhất; ông đã thực hiện các lý thuyết Graham-Dodd thành công trong nhiều thập kỷ.

Giá trị nội tại được tính bằng dữ liệu tài chính và có thể đưa ra một số giả định về lợi nhuận trong tương lai. Dòng tiền chiết khấu (DCF) là một trong những phương pháp định giá nội tại phổ biến nhất. DCF giả định một doanh nghiệp có giá trị tiền mặt mà nó có thể sản xuất và tiền mặt trong tương lai phải được chiết khấu với giá trị hiện tại để phản ánh chi phí vốn. Mặc dù việc phân tích tiên tiến đòi hỏi một phương pháp tiếp cận sắc bén hơn, các bảng cân đối tài chính tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời liên quan chỉ đơn thuần là cơ cấu của hoạt động kinh doanh tiền mặt, do đó toàn bộ giá trị của công ty có thể được xác định bằng giá trị chiết khấu dự kiến ​​dòng tiền mặt trong tương lai.

Định giá thu nhập còn lại là một phương pháp phổ biến khác để tính giá trị nội tại. Về lâu dài, tính toán giá trị thực tế giống hệt dòng tiền được chiết khấu, nhưng khái niệm lý thuyết thì khác. Phương pháp thu nhập còn lại giả định rằng một doanh nghiệp có giá trị vốn cổ phần ròng hiện tại cộng với tổng thu nhập trong tương lai vượt quá lợi nhuận yêu cầu đối với vốn chủ sở hữu. Lợi tức yêu cầu đối với vốn chủ sở hữu phụ thuộc vào một số yếu tố và có thể thay đổi từ nhà đầu tư sang nhà đầu tư, mặc dù các nhà kinh tế có thể tính được tỷ suất lợi nhuận bắt buộc theo quy định dựa trên giá thị trường và lợi suất bảo đảm nợ.

Phân tích kỹ thuật

Một số nhà đầu tư bỏ qua việc phân tích các chi tiết cụ thể của hoạt động kinh doanh của một cổ phiếu, thay vì xác định giá trị bằng cách phân tích hành vi của người tham gia thị trường. Phương pháp này được gọi là phân tích kỹ thuật, và nhiều nhà đầu tư kỹ thuật giả định giá thị trường đã phản ánh tất cả các thông tin sẵn có về nguyên tắc cơ bản của cổ phiếu. Các nhà phân tích kỹ thuật dự báo biến động của giá cổ phiếu trong tương lai bằng cách dự báo các quyết định trong tương lai của người mua và người bán.

Bằng cách quan sát bảng giá và khối lượng giao dịch, các nhà phân tích kỹ thuật có thể xác định khoảng cách số lượng người tham gia thị trường sẵn sàng mua hoặc bán cổ phiếu với mức giá khác nhau. Nếu không có những thay đổi lớn về nguyên tắc cơ bản, mục tiêu nhập cảnh hoặc xuất cảnh cho người tham gia cần phải tương đối hẹp, vì vậy các nhà phân tích kỹ thuật có thể nhận ra các tình huống có tồn tại sự mất cân bằng cung và cầu ở mức giá hiện tại. Nếu số lượng người bán ở một mức giá nhất định thấp hơn số người mua, thì nó sẽ đẩy giá lên cao.