Lạm phát và giảm phát mặc dù các tình huống đối lập khá giống nhau đối với sự tàn phá họ có thể nhìn thấy trên danh mục đầu tư của một nhà đầu tư. Một chiến lược giảm nhẹ tác động tiêu cực của lạm phát và giảm phát là đầu tư vào cổ phiếu blue-chip vốn có giá trị ổn định về mặt lịch sử và có lịch sử về thời tiết cả chu kỳ lạm phát và giảm phát.
Lạm phát là sự gia tăng chung của giá cả hàng hoá và dịch vụ, làm cho số tiền tương tự nhau có giá trị ít hơn. Với số tiền vừa phải, lạm phát được coi là bình thường (2-3% một năm là lý tưởng) và thường có thể bị vượt qua bởi đầu tư thông minh. Giá của mọi thứ từ xe hơi đến sữa đến mái tóc tăng dần theo thời gian, nhưng trong một nền kinh tế lành mạnh, thì thu nhập của người dân cũng như giá trị đầu tư. Lạm phát trở thành mối lo ngại khi nó vượt quá mức tăng trưởng thu nhập và lợi tức đầu tư. Ví dụ ở Hoa Kỳ trong những năm 1970, lạm phát đã tăng lên đến 13%, nhưng tiền lương bằng phẳng và thị trường chứng khoán chỉ quay trở lại 5-6%. Kết quả là, người tiêu dùng thấy sức mua của họ nhanh chóng suy giảm.
Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật của giảm phát là giá cả đang giảm. Trên bề mặt, nó có vẻ như là một điều tốt; khi giá giảm, số tiền tương tự có thể mua thêm. Tuy nhiên, giảm phát thường được thúc đẩy bởi nhu cầu giảm, thường là kết quả từ sự yếu kém cơ bản trong nền kinh tế. Khi giá bắt đầu giảm, người tiêu dùng tiếp tục mua hàng, mong rằng giá sẽ giảm nhiều hơn. Việc thiếu chi tiêu làm suy yếu nền kinh tế, làm giảm đi một vòng xoáy xuống, thường xuyên lên đến đỉnh điểm trầm cảm hoặc một thời kỳ trì trệ kinh tế kéo dài.
Cả hai kịch bản tạo ra tình huống gây phiền hà cho nhà đầu tư. Lạm phát đặt áp lực xung đột trên thị trường chứng khoán. Giá cả tăng có tiềm năng tăng giá trị vốn cổ phần; tuy nhiên, khi giá tăng, sức mua của người tiêu dùng giảm, và họ mua ít đi hơn. Lợi nhuận của các công ty giảm vì họ bán ít hàng hoá và dịch vụ hơn, thường có ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu. Ngay cả khi lợi nhuận là tích cực, lợi nhuận thực, tính bằng cách trừ lạm phát từ lợi nhuận thực tế, thường là tiêu cực trong thời kỳ lạm phát cao.
Việc giảm phát hầu như không thay đổi gây áp lực giảm trên thị trường chứng khoán. Các công ty buộc phải sa thải công nhân và cắt giảm lương do giá giảm khiến doanh thu giảm; kết quả là người ta có ít tiền hơn để đầu tư hoặc phải thanh lý các khoản đầu tư hiện có để trả chi phí sinh hoạt, làm cho giá cổ phiếu giảm.
Các cổ phiếu blue-chip được cách nhiệt hơn các cổ phiếu khác từ những ảnh hưởng tàn phá của lạm phát và giảm phát.Hầu hết các công ty blue-chip đều bán các sản phẩm được sử dụng rộng rãi trong thời gian kinh tế tốt và xấu, chẳng hạn như hàng gia dụng, đồ gia dụng và hàng không xa xỉ xe ô tô. Thậm chí ngay cả khi sức mua của họ giảm đi, người ta vẫn phải mua những thứ cần thiết cơ bản, và điều này sẽ giúp các công ty này có được lợi nhuận. Nhiều công ty blue-chip, mặc dù không phải tất cả, trả cổ tức. Cổ tức cung cấp một nguồn thu nhập bổ sung rất cần thiết khi chứng khoán trở lại đấu tranh để theo kịp lạm phát.
Có thể một cổ phiếu mất hết giá trị của nó? Làm thế nào điều này sẽ ảnh hưởng đến một vị trí dài hoặc ngắn?
Câu trả lời cho phần đầu của câu hỏi này là khá đơn giản: có, cổ phiếu có thể mất tất cả giá trị của chúng trên thị trường. Bây giờ, chúng tôi không muốn sợ bạn bỏ đầu tư vào chứng khoán, hoặc đầu tư nói chung. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ nói dối nếu chúng tôi nói với bạn rằng cổ phiếu không có rủi ro (mặc dù một số mang nhiều hơn những người khác). Để giúp bạn hiểu tại sao một cổ phiếu có thể mất tất cả giá trị của nó, chúng ta nên xem xét giá cổ phiếu được xác định như thế nào.
Tỷ lệ phiếu giảm giá của trái phiếu ảnh hưởng như thế nào lên giá của nó?
Tìm ra cách tỷ lệ phiếu giảm giá của trái phiếu ảnh hưởng đến giá cả, bao gồm vai trò của lãi suất chính phủ và lợi ích của việc mua trái phiếu giảm giá.
Giá trị của bất động sản ảnh hưởng như thế nào đến giá trị của hợp đồng thuê ba mạng (NNN)?
Hiểu giá trị của bất động sản liên quan đến một hợp đồng thuê ba là bao nhiêu ảnh hưởng đến giá trị của hợp đồng thuê cả về mặt tích cực và tiêu cực.