Các yếu tố chính dẫn động giá cổ phần trong ngành dịch vụ tài chính là gì?

Đầu tư cổ phiếu Vietcombank (VCB) - an toàn hơn cả gửi tiết kiệm (Tháng Mười 2024)

Đầu tư cổ phiếu Vietcombank (VCB) - an toàn hơn cả gửi tiết kiệm (Tháng Mười 2024)
Các yếu tố chính dẫn động giá cổ phần trong ngành dịch vụ tài chính là gì?
Anonim
a:

Ngành dịch vụ tài chính bao gồm các doanh nghiệp như ngân hàng lớn, các công ty dịch vụ tín dụng, công ty quản lý tài sản, nhà môi giới và bên cho vay thế chấp. Một số công ty lớn nhất và có lợi nhất trên thế giới nằm trong khu vực dịch vụ tài chính; kết quả là nhiều nhà đầu tư có ý thức tăng trưởng coi đây là một nơi hấp dẫn để bỏ tiền. Mặc dù lĩnh vực này mang lại tiềm năng cho lợi nhuận tuyệt vời, nhưng nó cũng đầy rủi ro cho các nhà đầu tư không có hiểu biết sâu sắc về giá cổ phiếu. Mặc dù nhiều yếu tố có thể làm giảm giá cổ phần trong ngành dịch vụ tài chính để di chuyển theo cách này hay cách khác, nhưng ba yếu tố lớn nhất là điều kiện kinh tế chung, lãi suất và thay đổi pháp luật.

Các điều kiện kinh tế chung bao gồm các yếu tố như thất nghiệp, thu nhập gia đình trung bình và tăng trưởng (hoặc co lại) trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP), có lẽ là chất xúc tác lớn nhất cho việc tăng hoặc giảm giá chứng khoán ngành dịch vụ tài chính. Các nhà môi giới, công ty thế chấp và các công ty thẻ tín dụng chỉ là một vài doanh nghiệp dịch vụ tài chính hoạt động tốt hơn trong một nền kinh tế tốt. Khi nền kinh tế mạnh mẽ, người ta có nhiều tiền hơn để đầu tư với môi giới của họ, họ mua thêm bất động sản - thường được tài trợ bởi các khoản vay thế chấp - và họ mua sắm nhiều hơn. Sự sụt giảm kinh tế sắc nét đánh vần thảm họa trong ngành dịch vụ tài chính; người dân có ít tiền hơn để đầu tư và chi tiêu, và họ gặp khó khăn trong việc có được tín dụng. Cuộc Đại suy thoái năm 2007-2009 đã chứng kiến ​​sự tan rã của vô số các công ty tài chính, từ các hãng khổng lồ trong ngành như Lehman Brothers cho hàng trăm công ty thế chấp nhỏ và nhà đầu tư.

Lãi suất có ảnh hưởng lớn đến giá cổ phiếu trong ngành dịch vụ tài chính. Lãi suất thấp khuyến khích người tiêu dùng vay mượn và cung cấp ít động cơ khuyến khích để tiết kiệm, trong khi lãi suất cao có tác động ngược lại. Phần lớn các tổ chức tài chính kiếm tiền bằng cách cho vay và thu lãi. Ngược lại, khi khách hàng quyết định tiết kiệm tiền, tổ chức đó là người phải trả lãi. Theo nguyên tắc chung, các công ty dịch vụ tài chính có nhiều lợi nhuận hơn và có giá cổ phiếu cao hơn khi lãi suất thấp. Lãi suất chủ yếu được kiểm soát bởi cung và cầu. Tuy nhiên, chính phủ cũng có ảnh hưởng. Khi muốn hạ lãi suất, có thể kích thích nền kinh tế, nó mua chứng khoán từ các ngân hàng, cho họ nhiều tiền hơn để cho vay và giảm lãi suất. Khi muốn lãi suất cao hơn, như để giảm lạm phát, nó mua chứng khoán, làm giảm nguồn cung tiền tệ và tăng chi phí đi vay.

Nhà đầu tư không thể bỏ qua những ảnh hưởng của quy định của chính phủ đối với giá cổ phiếu dịch vụ tài chính. Thị trường nhận thức các quy định như ngộp nghẽn khả năng kiếm tiền của một doanh nghiệp, do đó, giá cổ phiếu có xu hướng giảm khi một bộ luật hạn chế nhằm vào một ngành công nghiệp nhất định được ban hành. Ngay sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, nhiều chính phủ trên thế giới đã tập trung rất nhiều vào việc điều tiết các ngân hàng và các định chế tài chính. Các nhà đầu tư khôn ngoan giữ một con mắt thận trọng về sự phát triển trong lĩnh vực đó.