Tại sao kinh tế học Keynes đôi khi được gọi là kinh tế cầu?

Đôi nét về kinh tế học tân cổ điển (Neoclassical economics) (Tháng Chín 2024)

Đôi nét về kinh tế học tân cổ điển (Neoclassical economics) (Tháng Chín 2024)
Tại sao kinh tế học Keynes đôi khi được gọi là kinh tế cầu?
Anonim
a:

Vì các nhà kinh tế học Keynes tin rằng yếu tố chính thúc đẩy hoạt động kinh tế và biến động ngắn hạn là nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ, lý thuyết đôi khi được gọi là kinh tế cầu. Quan điểm này trái ngược với lý thuyết kinh tế cổ điển, hay kinh tế học cung cấp, trong đó nêu rõ sản xuất hàng hoá, dịch vụ, hoặc cung cấp, có tầm quan trọng hàng đầu trong tăng trưởng kinh tế.

Nhà kinh tế học John Maynard Keynes đã phát triển lý thuyết kinh tế của mình phần lớn là phản ứng đối với cuộc Đại suy thoái những năm 1930. Trước cuộc Đại suy thoái kinh tế cổ điển là lý thuyết chi phối, với niềm tin rằng thông qua các lực lượng cung và cầu thị trường, sự cân bằng kinh tế sẽ được khôi phục tự nhiên theo thời gian. Tuy nhiên, cuộc Đại suy thoái và tỷ lệ thất nghiệp kéo dài, đã thách thức các lý thuyết kinh tế cổ điển, điều này không thể lý giải tại sao các cơ chế của thị trường tự do lại không khôi phục lại sự cân bằng cho nền kinh tế.

Keynes cho rằng thất nghiệp là kết quả của một nhu cầu không đủ cho hàng hoá. Trong cuộc Đại suy thoái, các nhà máy ngồi nhàn rỗi và công nhân thất nghiệp vì không có nhu cầu về những sản phẩm đó. Ngược lại, các nhà máy không có nhu cầu về công nhân. Do thiếu cầu, nhu cầu thất nghiệp tiếp tục tồn tại và, trái với các lý thuyết kinh tế cổ điển, thị trường không thể tự điều chỉnh và khôi phục sự cân bằng.

Một trong những đặc điểm cốt lõi của kinh tế học Keynes hoặc nhu cầu là nhấn mạnh vào nhu cầu tổng hợp. Tổng nhu cầu bao gồm bốn yếu tố: tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ; đầu tư theo ngành trong lĩnh vực hàng vốn; chi tiêu của chính phủ đối với hàng hoá và dịch vụ công; và xuất khẩu ròng. Theo mô hình cầu, Keynes ủng hộ sự can thiệp của chính phủ để giúp vượt qua nhu cầu tổng cầu thấp trong ngắn hạn, như trong giai đoạn suy thoái hoặc trầm cảm, để giảm tỷ lệ thất nghiệp và kích thích tăng trưởng.

Nếu các thành phần khác của nhu cầu tổng hợp là tĩnh, chi tiêu của chính phủ có thể giảm thiểu những vấn đề này. Nếu người dân ít có khả năng hoặc sẵn sàng tiêu dùng, và các doanh nghiệp ít sẵn sàng đầu tư xây dựng thêm nhiều nhà máy, chính phủ có thể bước vào để tạo ra nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ. Nó có thể đạt được mục tiêu này thông qua việc kiểm soát nguồn cung tiền; nó làm điều này bằng cách thay đổi lãi suất hoặc bán hoặc mua trái phiếu do chính phủ phát hành.

Kinh tế học Keynes ủng hộ chi tiêu của chính phủ nhiều trong thời kỳ suy thoái kinh tế toàn quốc nhằm khuyến khích các hoạt động kinh tế. Đưa thêm tiền vào túi của tầng lớp trung lưu và thấp hơn có lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế hơn là tiết kiệm hoặc tích trữ tiền trong tài khoản của một người giàu có.Việc tăng dòng tiền cho tầng lớp thấp và tầng lớp trung lưu làm tăng vận tốc tiền hoặc tần suất sử dụng $ 1 để mua hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước. Tăng vận tốc tiền đồng nghĩa với việc nhiều người tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ, và do đó góp phần làm tăng nhu cầu tổng hợp.