Việc sử dụng các Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS) ảnh hưởng đến tỷ lệ tài chính chủ yếu như thế nào?

The Vietnam War: Reasons for Failure - Why the U.S. Lost (Có thể 2024)

The Vietnam War: Reasons for Failure - Why the U.S. Lost (Có thể 2024)
Việc sử dụng các Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS) ảnh hưởng đến tỷ lệ tài chính chủ yếu như thế nào?
Anonim
a:

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu kể từ năm 2002 về sự hội tụ giữa các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và các tiêu chuẩn kế toán Hoa Kỳ được chấp nhận rộng rãi (GAAP) nhưng vẫn có sự khác biệt giữa hai bộ tiêu chuẩn kế toán ảnh hưởng đến việc tính các chỉ số tài chính chủ yếu. So với GAAP, IFRS có các quy tắc lỏng lẻo liên quan đến việc công nhận doanh thu có thể dẫn đến doanh thu cao hơn, ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và tỷ lệ đòn bẩy. Không giống như GAAP, IFRS cho phép tính chi phí phát triển, ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận, tỷ số đòn bẩy và các tỷ lệ hiệu quả khác. IFRS chỉ cho phép phương pháp đầu tiên được áp dụng lần đầu tiên để đánh giá hàng tồn kho, trong khi GAAP cho phép sử dụng lần đầu tiên và lần đầu tiên ra đời, dẫn đến tỷ suất sinh lợi cao hơn và tỷ suất luân chuyển hàng tồn kho thấp hơn theo IFRS. GAAP có các quy tắc dựa trên số cụ thể để thuê vốn hóa, trong khi IFRS thì không, dẫn đến sự khác biệt về khả năng sinh lợi và tỷ lệ đòn bẩy.

So với GAAP, IFRS cho phép các công ty nhận ra doanh thu sớm hơn, ngay cả khi khoản dự phòng liên quan đến một phần doanh thu. GAAP nghiêm cấm công nhận doanh thu dự kiến ​​và yêu cầu các công ty trì hoãn nó cho đến khi giải pháp được giải quyết. Một ví dụ về thu nhập ngẫu nhiên là một thỏa thuận mà theo đó một khoản lệ phí, do một đại lý bóng đá phải bồi thường, sẽ bị hủy nếu người chơi bóng đá vi phạm hợp đồng của mình với một đội bóng đá. Theo IFRS, kết quả nhận ra doanh thu trước đó là doanh thu cao hơn, tỷ suất lợi nhuận cao hơn (lợi tức đầu tư, lợi nhuận trên tài sản, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) và tỷ lệ đòn bẩy thấp hơn.

GAAP yêu cầu tất cả các chi phí liên quan đến việc phát triển sản phẩm được công nhận là chi phí ngay. IFRS cho phép vốn hóa chi phí phát triển theo các điều kiện nhất định. Ví dụ, chi phí phòng thí nghiệm của một công ty dược phẩm trong việc phát triển một loại thuốc có thể được vốn hóa trên bảng cân đối kế toán theo IFRS. Việc tận dụng các chi phí phát triển theo IFRS dẫn đến chi phí thấp hơn so với GAAP, dẫn đến doanh thu cao hơn, tỷ suất lợi nhuận cao hơn, tỷ lệ đòn bẩy thấp hơn và tỷ lệ doanh thu tài sản thấp hơn.

Trong GAAP, các công ty có thể chọn phương pháp LIFO hoặc FIFO để định giá khoảng không quảng cáo của họ, trong khi IFRS cấm sử dụng LIFO và chỉ cho phép FIFO. Trong môi trường kinh tế với chi phí gia tăng, phương pháp LIFO tạo ra chi phí bán hàng cao hơn, lợi nhuận thấp hơn và cán cân tài khoản tồn kho thấp hơn. Các công ty sử dụng FIFO theo IFRS có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn, tỷ lệ đòn bẩy cao hơn và tỷ lệ doanh thu hàng tồn kho cao hơn so với các công ty tuân theo GAAP và sử dụng LIFO.

GAAP cung cấp tiêu chí cụ thể dựa trên số cho các công ty để xác định liệu một hợp đồng thuê được phân loại là hoạt động hay vốn. Hợp đồng thuê hoạt động là khoản nợ ngoại bảng và không được ghi nhận trên báo cáo tài chính của công ty, trong khi hợp đồng thuê vốn được ghi nhận vốn và ảnh hưởng đến cả mặt tài sản và trách nhiệm pháp lý của bảng cân đối tài sản. GAAP yêu cầu một hợp đồng thuê với thời hạn bằng ít nhất 75% thời gian sử dụng hữu ích của một tài sản được phân loại là vốn. Ngoài ra, GAAP yêu cầu thuê vốn hóa nếu giá trị hiện tại của khoản thanh toán tối thiểu phải bằng ít nhất 90% giá trị hợp lý của tài sản thuê. IFRS, mặt khác, không có ngưỡng cụ thể như vậy.

Sự khác biệt về phân loại hợp đồng thuê có thể dẫn đến tỷ lệ đòn bẩy cao hơn, lợi nhuận trên tài sản thấp hơn và tỷ suất lợi nhuận hoạt động cao hơn, nếu hợp đồng thuê được phân loại là hoạt động theo IFRS trái với hợp đồng thuê vốn theo GAAP.