4 Thách thức về kinh tế Hàn Quốc phải đối mặt trong năm 2016

Kinh tế VN tăng 6,2% năm 2016, còn khó khăn năm 2017 (Có thể 2024)

Kinh tế VN tăng 6,2% năm 2016, còn khó khăn năm 2017 (Có thể 2024)
4 Thách thức về kinh tế Hàn Quốc phải đối mặt trong năm 2016

Mục lục:

Anonim

Hàn Quốc đã thể hiện sự mở rộng kinh tế ấn tượng trong 50 năm qua, trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất trên thế giới. Triển vọng tiếp tục là tích cực đối với quốc gia Châu Á, với tăng trưởng GDP dự kiến ​​sẽ tăng lên 3% trong bối cảnh tiêu dùng trong nước đang được cải thiện. Tuy nhiên, năm 2016 đưa ra một số thách thức cho Hàn Quốc, chủ yếu là dưới hình thức đe dọa đối với cạnh tranh xuất khẩu.

1. Lạm phát ở các nước láng giềng

Kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc rất nhiều vào thương mại quốc tế với xuất khẩu gần 50% GDP vào năm 2014. Tỷ giá với các đồng tiền ở các quốc gia gần đây rất quan trọng đối với triển vọng của Hàn Quốc. Do Trung Quốc và Nhật Bản là hai trong số các đối tác thương mại gần nhất của Hàn Quốc, việc khấu hao nhân dân tệ và đồng yên sẽ có tác động giảm phát do hàng nhập khẩu và dịch vụ sẽ trở nên rẻ hơn và xuất khẩu đắt hơn ở các thị trường cuối cùng. Điều này làm cho các nhà sản xuất trong nước bất lợi rõ ràng đối với các đối thủ cạnh tranh ở các nước láng giềng.

Trung Quốc và Nhật Bản cũng là đối thủ cạnh tranh lớn của Hàn Quốc trên thị trường toàn cầu. Lạm phát ở các loại tiền tệ này có thể làm giảm khả năng cạnh tranh về giá của Hàn Quốc, vì cùng một loại hàng hoá rẻ hơn nếu có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc Nhật Bản, tất cả các yếu tố khác đều bình đẳng. Hàn Quốc đã phải đối mặt với thách thức chính xác này kể từ năm 2012, khi Nhật Bản thực hiện các biện pháp giảm giá điện tử và kim loại. Xuất khẩu đã hoàn toàn là trung tâm cho sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Hàn Quốc từ những năm 1960 đến năm 2015 và bất kỳ mối đe dọa nghiêm trọng nào đối với vị trí cạnh tranh của đất nước có thể có những tác động nghiêm trọng đến tiềm năng tăng trưởng.

2. Tiếp xúc với Trung Quốc

Nền kinh tế Hàn Quốc đang tiếp xúc với Trung Quốc, với Trung Quốc là nước nhập khẩu hàng hoá lớn nhất của Hàn Quốc. Nhu cầu tổng hợp ở Trung Quốc là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Hàn Quốc, và tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc được công bố rộng rãi dường như đang gây ra một số trì trệ trong tăng trưởng xuất khẩu của Hàn Quốc. Nhiều công ty Trung Quốc đang phải vật lộn để duy trì mức lợi nhuận hoạt động của họ, và ngày càng có nhiều trái phiếu của Trung Quốc cũng đạt mức trưởng thành, điều này có thể tạo ra vấn đề thanh khoản. Thặng dư thương mại thu hẹp có thể tạo ra sự sụt giảm đáng kể đối với nền kinh tế Hàn Quốc và gây bất ổn cho tỷ giá hối đoái. Ngoài việc sử dụng chính sách tiền tệ để giảm thiểu bất kỳ sự biến động tỷ giá nào, có rất ít Hàn Quốc có thể làm để kích thích nhu cầu nhập khẩu ở Trung Quốc.

3. Định hướng tăng lãi suất của Mỹ

Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã đảo ngược chính sách tiền tệ mở rộng dài hạn, tăng lãi suất 0,25% vào tháng 12 năm 2015. Hầu hết các nhà kinh tế ước tính Hoa Kỳ tăng lãi suất trong năm 2016, các nền kinh tế toàn cầu vẫn đang tham gia vào chính sách tiền tệ mở rộng.Vốn sẽ chảy không tương xứng với Hoa Kỳ khi các nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận cao hơn từ nợ. Trong khi các yếu tố ngắn hạn làm cho Hàn Quốc có nhiều khả năng tiếp tục cắt giảm lãi suất, các bộ trưởng tài chính của đất nước này sẽ phải theo dõi dòng vốn liên quan đến Hoa Kỳ để đảm bảo các công ty Hàn Quốc vẫn có thể tiếp cận thị trường vốn toàn cầu một cách thoải mái. Tăng trưởng xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ giúp Hàn Quốc được hưởng lợi từ việc tăng lãi suất của Fed, giảm sự cần thiết để tăng tỷ giá ở nước ngoài.

4. Các vấn đề về cấu trúc

Trong số các mặt hàng xuất khẩu nổi bật nhất của Hàn Quốc là chất bán dẫn và các thiết bị điện tử khác, xe ô tô và các sản phẩm dầu mỏ tinh chế. Tất cả các loại này đã phải đối mặt với áp lực giá cả đáng kể trên toàn cầu, tạo ra một số vấn đề cho ngành công nghiệp ở Hàn Quốc. Áp suất giá cả làm giảm tổng doanh thu cho các ngành này ở một sản lượng nhất định. Điều này cũng làm giảm lợi nhuận tại các công ty sản xuất, dẫn đến việc củng cố và cắt giảm chi phí. Thông thường, các chiến dịch hợp nhất ngành và các chiến dịch hiệu quả về chi phí dẫn đến mất việc làm và giảm áp lực lên tiền lương. Khi những ngành này trưởng thành, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động ngày càng bất lợi với các doanh nghiệp lớn, điều đó cũng có thể làm giảm việc làm.

Các nền kinh tế trưởng thành có mức lương tăng cao thường phải vật lộn để duy trì khả năng cạnh tranh xuất khẩu so với các nước có lao động rẻ hơn, đặc biệt nếu nền kinh tế trưởng thành trước đây dựa vào sản xuất sử dụng nhiều lao động. Trong nhiều trường hợp, việc làm trong lĩnh vực dịch vụ trở nên nổi bật hơn trong các nền kinh tế đang trưởng thành. Tăng trưởng năng suất trong lĩnh vực dịch vụ thường chậm hơn trong các ngành công nghiệp, thường bởi vì các nhà cung cấp dịch vụ là các doanh nghiệp nhỏ hơn không cân xứng và ít có khả năng hưởng lợi từ các chuỗi giá trị toàn cầu, do đó hạn chế tăng trưởng tiền lương.