Triển vọng lâu dài của ngành ngân hàng vẫn có tính chu kỳ, nhưng ít biến động hơn so với trước đây. Với những thay đổi cơ cấu trong ngành ngân hàng, các nhà đầu tư không nên kỳ vọng nó sẽ trở lại vị trí thống lĩnh trong nền kinh tế Uc về quy mô và khả năng kiếm được của nó trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008.
Do cuộc khủng hoảng tài chính, những cải cách quan trọng đã được thực hiện để đầu tư vào các ngân hàng ít nỗ lực hơn. Những biện pháp này cũng làm tổn thương khả năng của ngân hàng trong việc kiếm tiền thông qua các quy định chặt chẽ hơn về hoạt động kinh doanh, các tiêu chuẩn cho vay nghiêm ngặt hơn và các yêu cầu về dự trữ vốn cao hơn.
Trước cuộc khủng hoảng tài chính của U., ngành ngân hàng là ngành kinh tế lớn nhất của Mỹ. Kể từ đó, ngành ngân hàng đã giảm đáng kể. Bốn năm sau khi thị trường chứng khoán chạm đáy vào tháng 3 năm 2009, thị trường chứng khoán đã mở rộng mức cao với các nhóm ngành chính như cổ phiếu của người tiêu dùng, cổ phiếu công nghệ và cổ phiếu vận tải dẫn đầu.
Ngược lại, mặc dù các khu vực này trên thị trường đã vượt quá mức cao so với thị trường tăng trưởng trước đây, nhưng ngành ngân hàng vẫn duy trì mức cao hơn 50%. Ở đáy, khu vực này đã giảm gần 90% trong khi nhiều doanh nghiệp đi ra ngoài. Tình hình này cho thấy sự bình thường mới của các ngân hàng. Trong thời gian bong bóng nhà đất, các ngân hàng đã khá phiêu lưu khi bước vào thị trường mới, sử dụng đòn bẩy để tăng lợi nhuận và đưa vốn vào làm việc.
Cuối cùng, sự gia tăng ổn định về giá nhà đã kết thúc. Điều đó, cùng với sự gia tăng quá mức tín dụng dẫn đến các khoản thế chấp tài sản thế chấp và giảm phát trong tất cả các tài sản liên quan đến nhà ở, đã tạo ra những khoản lỗ đáng kể trong bảng cân đối ngân hàng. Do đòn bẩy, nhiều người đã mất khả năng thanh toán. Cuộc khủng hoảng này tăng lên khi thanh lý dẫn đến việc bán bắt buộc, dẫn đến giá tài sản còn thấp hơn.
Cuối cùng, chính phủ Ucraina đã tiến hành loại bỏ các tài sản độc hại khỏi bảng cân đối ngân hàng, bơm vốn vào các ngân hàng và thực hiện các bước để cải thiện điều kiện tài chính thông qua chính sách tiền tệ. Đã có một khoản chi phí chính trị to lớn cho những hành động này. Một phản ứng công khai lớn đã gây ra áp lực lên các chính trị gia để ngăn ngừa một gói cứu trợ tài chính khác.
Chính phủ Obama và Quốc hội đã kết thúc việc thông qua Đạo luật Dodd-Frank, kết thúc khả năng của các ngân hàng để có quá nhiều rủi ro. Đã có giới hạn về tỷ lệ đòn bẩy và mức độ bắt buộc về chất lượng bắt buộc nghiêm ngặt liên quan đến tài sản cũng như tài sản lưu động kéo dài trong một năm trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Một số doanh nghiệp bị coi là quá lớn để không thành công, về cơ bản là họ có những yêu cầu khắt khe hơn.Về cơ bản, sự thất bại của các công ty sẽ gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho hệ thống tài chính mà các chính phủ phải trả cho họ. Đây là một bảo hiểm tiềm ẩn cho các ngân hàng. Lợi tức trái phiếu đối với nợ thấp hơn các công ty có nền tảng cơ bản tương đương trong các lĩnh vực khác nhau vì lý do này.
Nếu Đạo luật Dodd-Frank đã được áp dụng trước cuộc khủng hoảng tài chính, nó đã ngăn cản nhiều sự lạm dụng đã góp phần vào sự phá sản. Điều này cũng ngăn cản khu vực này phát triển và trở thành một bộ phận thống trị của nền kinh tế Mỹ, giống như nó đã làm. Đây là thực tế mới cho các ngân hàng; họ sẽ tiếp tục kiếm được nhiều tiền hơn khi nền kinh tế được cải thiện, nhưng những con đường tăng trưởng đã bị đóng cửa.
Triển vọng dài hạn của ngành kim loại và ngành khai khoáng là gì?
Hãy nhìn vào triển vọng lâu dài của ngành kim loại và khai thác mỏ theo báo cáo của hội đồng cơ quan ngành công nghiệp của Diễn đàn Kinh tế Thế giới.
Triển vọng dài hạn của ngành ô tô là gì?
Tìm hiểu về triển vọng dài hạn của ngành ô tô và tác động của các công nghệ như ô tô tự lái và các ứng dụng chia sẻ xe hơi.
Triển vọng dài hạn của ngành điện tử là gì?
Phát hiện viễn cảnh dài hạn cho ngành điện tử bằng cách kiểm tra các nghiên cứu trường hợp trong quá khứ. Triển vọng nói chung là tích cực và lành mạnh.