Nới lỏng định lượng đã gây ra những hậu quả rộng khắp và không bình đẳng đối với các ngân hàng ở Hoa Kỳ. Cục Dự trữ Liên bang đã mua hàng tỉ đô la hàng tỷ đô la tài sản từ một số ngân hàng thương mại lớn và các tổ chức lưu ký khác. Những người nhận được các quỹ này nhìn thấy dự trữ của họ tăng cao và họ có thể cho vay thêm mà nếu không họ sẽ không thể thực hiện được. Trên bình diện kinh tế vĩ mô, nới lỏng định lượng giúp đẩy lãi suất xuống. Ngược lại, các ngân hàng trên cả nước trả ít tiền lãi hơn trên tài khoản tiền gửi của họ và tính lãi suất thấp hơn cho khoản vay của họ.
Một tác động có thể khác (mặc dù khó có thể đo lường) của việc nới lỏng định lượng đối với các ngân hàng sẽ xuất hiện trên danh mục đầu tư của ngân hàng. Các ngân hàng cũng có các khoản đầu tư, thường sử dụng các quỹ tiền gửi để mua tài sản thay vì cho vay thêm. Những khoản đầu tư của ngân hàng này cũng sẽ bị ảnh hưởng như những chương trình khác nếu chương trình nới lỏng định lượng của Fed chấm dứt làm méo mó thị trường tài chính.
Trong năm 2013, công ty tư vấn McKinsey & Company đã tiến hành khảo sát về những ảnh hưởng phân phối và rủi ro của nới lỏng định lượng ở U. và các nơi khác. Nó kết luận rằng lãi suất cực thấp được tạo ra bởi chính sách của ngân hàng trung ương có tương quan với khả năng sinh lời giảm của các ngân hàng khu vực đồng euro và các ngân hàng ở Anh; các ngân hàng tại Mỹ, tuy nhiên, đã có sự gia tăng lớn về lãi suất ròng hiệu quả và thu nhập từ lãi. Một phần của điều này có thể được giải thích bởi thực tế là chi phí đi vay giảm mạnh hơn ở U. so với các nơi khác, nhưng giả thuyết đó không hoàn toàn có thể kiểm chứng được.
Đồng thời, việc thắt chặt định lượng đã được thực hiện ở U. S., Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất mà nó sẽ trả cho những người cho vay đã gửi dự trữ ngân hàng tại Fed. Đây là một động thái tò mò, bởi vì nó có vẻ trái ngược với chính sách của Fed về việc tăng tính sẵn có của các khoản vay vốn trên thị trường. Bất kể, dự trữ ngân hàng tăng theo cấp số nhân khi đối mặt với tình trạng nới lỏng định lượng. Tất nhiên, không phải tất cả các ngân hàng đều nhận được quỹ nới lỏng định lượng, và không phải tất cả các ngân hàng đều có thể đặt cọc lớn vào Fed. Những ngân hàng không may mắn có thể gặp phải những bất lợi về mặt cạnh tranh.Nhìn chung, mặc dù, các ngân hàng ở Mỹ dường như có nhiều thanh khoản và lợi nhuận cao hơn trong giao dịch lãi suất. Giá trái phiếu tăng mạnh trong những năm sau chương trình nới lỏng định lượng đầu tiên; điều này có lợi cho các ngân hàng lớn có xu hướng nắm giữ hoặc bán trái phiếu. Vì không phải tất cả các ngân hàng đều có thể chia sẻ lợi ích như nhau, việc nới lỏng định lượng dẫn đến việc chuyển giao quyền lực cạnh tranh giữa các tổ chức cho vay khác nhau.
Một số người tin rằng FED đã tạo ra một mối nguy hiểm về đạo đức bằng cách ủng hộ các ngân hàng có những khoản đầu tư nghèo nàn trong quá khứ. Với hơn 4 nghìn tỷ tín dụng vay mượn từ các ngân hàng, Fed cũng đang trả lãi trên một bảng cân đối khổng lồ giúp các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc đưa ra các quyết định tài chính rủi ro.
Mức độ nới lỏng định lượng ở U. ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu như thế nào?
Xem tại sao rất khó để đánh giá tác động của chương trình nới lỏng định lượng của Cục dự trữ Liên bang, hay chương trình QE, về giá trái phiếu và năng suất trái phiếu.
Mức độ nới lỏng định lượng có ảnh hưởng gì đến người tiêu dùng ở U.?
ĐàO sâu hơn vào các chính sách nới lỏng định lượng của Fed và những tác động tiềm tàng nào mà họ có thể có đối với người tiêu dùng Mỹ.
Mức độ nới lỏng định lượng ở U. ảnh hưởng đến thị trường toàn cầu như thế nào?
Xem cách nới lỏng định lượng của Cục Dự trữ Liên bang có thể thao túng thị trường ở U. và trên toàn cầu bằng những cách khó hiểu.