Tỷ lệ hoàn vốn: Các động lực chính trong 30 năm qua

Tập 28: Quản lý lợi nhuận và chi phí trong Doanh nghiệp (Có thể 2025)

Tập 28: Quản lý lợi nhuận và chi phí trong Doanh nghiệp (Có thể 2025)
AD:
Tỷ lệ hoàn vốn: Các động lực chính trong 30 năm qua

Mục lục:

Anonim

Trong khoảng thời gian 30 năm giữa năm 1985 và năm 2014, cổ phiếu đã có một thời đại vàng tăng trưởng mạnh nhờ nhiều yếu tố. Tuy nhiên, báo cáo của Viện toàn cầu McKinsey năm 2016, "Giảm dần thu nhập", đã cảnh báo rằng các nguyên tắc cơ bản thúc đẩy những lợi ích này đã hoặc đang mờ dần trong sức mạnh hoặc hoàn toàn đảo ngược. Báo cáo dự đoán rằng trong hai thập kỷ tiếp theo, lợi nhuận hàng năm trung bình hàng năm ở Hoa Kỳ và châu Âu có thể ở bất cứ đâu từ 150 đến 400 điểm cơ bản (bps) thấp hơn giữa năm 1985 và năm 2014.

Lạm phát và Lãi suất

Lạm phát và lãi suất là hai động lực chính dẫn đến sự tăng điểm mạnh mẽ từ năm 1985 đến năm 2014. Trong những năm 1970, nền kinh tế Mỹ đã bị lạm phát cao bất thường về mặt ở mức cao.

Để làm cho sự biến động giá này được kiểm soát, Cục Dự trữ Liên bang tăng tỷ lệ chuẩn lên 4% lên 15,5% vào năm 1979, khiến cho lãi suất tăng lên. Các chính sách của ngân hàng trung ương cuối cùng đã thành công trong việc đưa lạm phát đến mức hợp lý hơn, và sau đó nó tiến tới hạ thấp tỷ lệ chuẩn. Kết quả là, Hoa Kỳ bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó chi phí lạm phát và vay mượn vẫn còn tương đối thấp.

-2->

Lạm phát giảm dần từ hơn 10% ở một số nước vào đầu những năm 1980 xuống còn dưới 2% sau năm 2008. Báo cáo của McKinsey dự đoán rằng chỉ số kinh tế hàng đầu này có khả năng sẽ tăng lên trong vòng 20 năm tới . Thêm vào đó, nó ghi nhận rằng chi phí đi vay không thể thấp hơn nhiều, và lợi ích trong tương lai của họ không thể dự đoán được.

Tăng trưởng kinh tế toàn cầu

Một yếu tố khác mà báo cáo trích dẫn như thúc đẩy tăng trưởng vốn chủ sở hữu là tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Trong thời kỳ được gọi là vàng, sự mở rộng này đã được mạnh mẽ. Một biến số chính hỗ trợ sự phát triển này là tăng trưởng mạnh ở Trung Quốc.

Trong khi Trung Quốc trở thành một cường quốc kinh tế theo thời gian, sự mở rộng của nó bắt đầu chậm dần vào cuối thời kỳ 30 năm, và nhiều chuyên gia thị trường đã bày tỏ sự nghi ngờ về những con số tăng trưởng do chính phủ Trung Quốc công bố.

Một đóng góp khác của báo cáo được trích dẫn là giúp tăng trưởng viện trợ giữa năm 1985 và năm 2015 là năng suất cao. Tuy nhiên, sự gia tăng ổn định về sản lượng lao động này bắt đầu giảm dần vào cuối giai đoạn này, khiến cho sự tăng lên trong tương lai không chắc chắn.

Báo cáo McKinsey cũng đã chỉ ra nhân khẩu học thuận lợi như một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ vàng son, phần lớn dân số toàn cầu đang lao động ở độ tuổi lao động đẩy cao hơn, làm giảm tỷ lệ phần trăm dân số này phụ thuộc vào nhóm tuổi trẻ hơn. Sự thay đổi này có thể đã giúp tăng khả năng tiết kiệm của người trung bình, tăng tổng tiết kiệm và đặt áp lực giảm trên lãi suất toàn cầu.

Tăng trưởng lợi nhuận của công ty

Sự tăng trưởng mạnh mẽ trong lợi nhuận của công ty đã giúp đẩy lợi nhuận vốn cổ phần từ năm 1985 đến năm 2014, nhưng báo cáo của McKinsey đã cảnh báo rằng thời kỳ thu nhập mạnh mẽ này sắp kết thúc. Trong kỷ nguyên vàng, lợi nhuận của công ty được hưởng lợi từ một loạt các phát triển.

Các công ty chứng kiến ​​hàng đầu của họ tăng trưởng nhờ thu nhập mạnh từ người tiêu dùng ở các thị trường mới nổi. Quản lý chi phí hiệu quả từ các chuỗi cung ứng toàn cầu và tự động hoá cũng giúp tăng cường hiệu quả. Ngoài ra, lợi nhuận của công ty được lợi từ việc giảm thuế và thuế doanh nghiệp.

Tuy nhiên, môi trường đang thay đổi, vì nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty ở các thị trường mới nổi và các doanh nghiệp đi vào các lĩnh vực mới nhờ sử dụng các công nghệ mới.

Tóm tắt

Các cổ phiếu đã có thời kỳ trở lại mạnh mẽ từ năm 1985 đến năm 2014, nhưng báo cáo của McKinsey nhấn mạnh rằng trong hai thập kỷ tiếp theo, triển vọng nhìn chung khá không chắc chắn. Gần cuối giai đoạn 30 năm khi cổ phiếu tăng điểm mạnh mẽ, những nguyên tắc cơ bản đã thúc đẩy những mức lợi nhuận cao này đã có ít hoặc không có chỗ để cải thiện. Mặt khác, họ có khá nhiều chỗ để xấu đi, có thể đặt áp lực giảm về lợi nhuận vốn cổ phần.