Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929 là do thị trường quá mua, định giá quá cao và quá đà tăng lên, ngay cả khi các điều kiện kinh tế không hỗ trợ trước. Vụ tai nạn bắt đầu vào ngày 24 tháng 10, khi thị trường mở cửa giảm 11%. Các tổ chức và nhà tài trợ bước lên với giá cao hơn giá thị trường để ngăn chặn sự hoảng loạn, và những tổn thất trong ngày đó là khiêm tốn với cổ phiếu bị thu hẹp lại trong hai ngày tiếp theo. Tuy nhiên, sự hồi phục này trở nên mơ hồ, như ngày thứ hai tiếp theo, bây giờ được gọi là Đen Thứ Hai, thị trường đã giảm 13% với những thiệt hại tràn ngập bởi các cuộc gọi margin. Ngày hôm sau (thứ Hai Đen), giá thầu hoàn toàn biến mất, và thị trường giảm 12%. Từ đó, thị trường có xu hướng giảm cho tới khi chạm đáy vào năm 1932.
Trước khi vụ tai nạn này, thị trường chứng khoán đạt đỉnh điểm vào ngày 3 tháng 9 với chỉ số DJIA (DJIA) tại 381. 17. Đáy cuối cùng đã được thực hiện vào ngày 8 tháng 7 năm 1932, nơi mà Dow đứng ở 41. 22. Từ đỉnh đến đáy, đây là lỗ 89. 19%. Có nhiều mã cổ phiếu nhỏ và đầu cơ có nhiều nỗi đau, nhiều trong số đó đã tuyên bố phá sản và không được niêm yết trên thị trường. Chỉ đến ngày 23 tháng 11 năm 1954, Dow mới đạt mức đỉnh 381 trước đó. 17. (Để biết thêm thông tin, xemGiới thiệu về Chỉ số công nghiệp Dow Jones ) Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929 và Cuộc Đại suy thoái đã làm thay đổi quan điểm và mối liên hệ của cả thế hệ với các thị trường tài chính. Theo một nghĩa nào đó, đó là một sự đảo ngược hoàn toàn thái độ của những năm 20, những năm tháng đó đã là thời điểm lạc quan và tăng trưởng kinh tế.
Trong nửa đầu thập kỷ này, các công ty kinh doanh xuất sắc xuất khẩu sang châu Âu đã được xây dựng lại từ chiến tranh. Thất nghiệp thấp, ô tô đã lan rộng khắp cả nước, tạo công ăn việc làm và hiệu quả cho nền kinh tế. Cho đến đỉnh điểm vào năm 1929, giá cổ phiếu đã tăng gần gấp mười lần.Tăng trưởng kinh tế tạo ra một môi trường trong đó đầu cơ vào cổ phiếu trở thành một sở thích, với dân số chung muốn có một phần của thị trường. Nhiều người đã mua cổ phiếu có tỷ suất lợi nhuận cao đến ba lần, có nghĩa là họ đã bỏ 1 đô la cho mỗi cổ phiếu mà họ mua. Điều này cũng có nghĩa là một mất 1/3 giá trị trong cổ phiếu sẽ quét sạch chúng.
Mọi người không mua cổ phiếu vì nguyên tắc cơ bản; họ đang mua vào với dự đoán tăng giá cổ phiếu. Giá cổ phiếu tăng lên chỉ đơn giản mang nhiều người hơn vào thị trường, tin rằng đó là tiền dễ dàng. Giữa năm 1929, nền kinh tế đã vấp ngã do sản lượng thừa trong nhiều ngành công nghiệp, tạo ra lượng cung thừa.Về cơ bản, các công ty có thể thu được tiền một cách rẻ tiền do giá cổ phiếu cao và đầu tư vào sản xuất của họ với sự lạc quan cần thiết.
Sự sản xuất quá mức này dẫn đến tình trạng thừa cung ở nhiều nơi trên thị trường như nông trại, thép và sắt. Các công ty buộc phải bỏ sản phẩm của họ vào một sự mất mát, và giá cổ phiếu bắt đầu chùng xuống. Do số lượng cổ phiếu mua vào do lợi ích của công chúng và thiếu tiền mặt bên lề, toàn bộ danh mục đầu tư được thanh lý và thị trường chứng khoán giảm xuống.Đọc tất cả về giao dịch trên lề ở đây - Margin Trading. Bạn cũng có thể đọc thêm về tai nạn ảnh hưởng đến nền kinh tế trong hướng dẫn The Greatest Market Crashes.
4 Thị trường mới nổi Thị trường chứng khoán ETFs đối với thị trường tăng trưởng (VWO, EEMV)
Tìm hiểu về việc các cổ phiếu của các thị trường mới nổi lên đến đâu vào năm 2016 và bốn ETF xem xét cho một thị trường bò và gấu ở các thị trường mới nổi.
ĐIều gì gây ra Đen Thứ Hai, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1987?
Tìm hiểu về các yếu tố đằng sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1987, còn được gọi là Black Monday, khi chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 23%.
Chính phủ Hoa Kỳ có thể áp dụng các biện pháp gì để ngăn ngừa một cuộc khủng hoảng tương tự như khủng hoảng cho vay và cứu trợ (khủng hoảng S & L)?
Khám phá những biện pháp mà chính phủ Hoa Kỳ có thể thực hiện để ngăn ngừa một cuộc khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng S & L. Cuộc khủng hoảng S & L kéo dài hơn một thập kỷ.